Cuốn tiểu thuyết “Nợ Nần” của nhà văn Nguyễn Công Hoan là một tác phẩm kinh điển của văn học Việt Nam, vẫn giữ nguyên giá trị qua thời gian và tiếp tục được giảng dạy trong chương trình đại học văn khoa. Nguyễn Công Hoan, tác giả của những tác phẩm nổi tiếng như “Tắt lửa lòng”, “Bước đường cùng”, “Tấm lòng vàng”, “Cô giáo Minh”, đã khắc họa nên một bức tranh xã hội đầy sắc màu và chi tiết qua ngòi bút sắc sảo của mình. Ông không chỉ viết về tình yêu, cuộc sống thường nhật mà còn đào sâu vào những vấn đề xã hội gai góc, thể hiện sự đa chiều và sâu sắc trong từng tác phẩm. Mỗi câu chữ của ông đều mang một dấu ấn riêng, góp phần định hình và nâng tầm nghệ thuật tiểu thuyết Việt Nam đương thời. Sinh ra và lớn lên trong một gia đình quan lại, truyền thống tri thức đã ảnh hưởng sâu sắc đến sự nghiệp văn chương của Nguyễn Công Hoan, đưa ông trở thành một trong những cây bút vĩ đại của nền văn học nước nhà. Ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật năm 1996, ghi nhận những đóng góp to lớn của ông cho văn học Việt Nam.
“Nợ Nần” là một trong những tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Công Hoan, xứng đáng được đọc và nghiên cứu. Tác phẩm không chỉ mang giá trị văn học mà còn là một kho tàng quý giá, giúp người đọc hiểu hơn về xã hội Việt Nam thời kỳ trước. Chúng ta cần có thêm nhiều cơ hội để khám phá sâu hơn về tác phẩm cũng như cuộc đời đầy gian truân của nhà văn Nguyễn Công Hoan.
“Nợ Nần” khắc họa số phận bi kịch của bà Thuyết, một người phụ nữ sống trong cảnh nợ nần chồng chất và nỗi đau mất mát. Sau một cơn bạo bệnh, bà trở nên lầm lạc, lúc tỉnh lúc mê, chỉ thực sự minh mẫn khi kể về những nỗi đau đã trải qua. Không còn một xu dính túi, bà sống phụ thuộc vào gia đình con gái, hàng ngày lang thang trên những con đường vắng vẻ với cây gậy làm bạn, hoặc cùng chú chó Cún đi dạo. Bà tìm cách trốn tránh những người đòi nợ, dù bản thân biết rõ mình không còn khả năng chi trả. Hình ảnh bà Thuyết lẩn khuất trong bóng tối, né tránh ánh mắt của người đời, thể hiện sự tuyệt vọng và bất lực của một kiếp người khốn cùng.
Mỗi chiều, bà Thuyết lại tìm đến nghĩa trang, gục xuống bên mộ con gái, than khóc cho con, cho chồng, cho chính số phận nghiệt ngã của mình. Tiếng khóc ai oán, khàn đặc giữa không gian vắng lặng càng tô đậm thêm bi kịch cuộc đời bà. Dù được khuyên giải rằng người chết đã đi xa, không còn vướng bận trần gian, bà vẫn không nguôi ngoai nỗi đau. Bà tin rằng mình đang phải gánh chịu sự trừng phạt của số phận, phải chứng kiến những người thân yêu lần lượt ra đi trước khi nhắm mắt xuôi tay.
Cuộc sống đối với bà Thuyết chỉ còn là chuỗi ngày đau khổ triền miên. Bà khao khát được giải thoát, được trở về với thiên nhiên, với rừng xưa cây Phượng để tan biến vào hư vô. Nhưng ngay cả cái chết cũng trở nên xa xỉ khi bà không có tiền lo liệu hậu sự. Bà phải sống lay lắt, nương tựa vào gia đình con gái, ôm cháu nội cháu ngoại mà khóc, khóc cho đến khi đôi mắt sưng húp, chờ đợi cái chết đến giải thoát mình khỏi kiếp sống đầy tủi nhục.