Emile Zola, một trong những cây bút văn học vĩ đại nhất của nước Pháp nửa cuối thế kỷ XIX, cùng với Guy de Maupassant, đã tạo nên một cơn sốt văn chương thực sự trong lòng công chúng đương thời. Các tác phẩm của ông, phần lớn mang tính giải trí cao, đã nhanh chóng chiếm được cảm tình của đông đảo độc giả. Năm 1867, Zola xuất bản “Thiếu phụ đam mê”, một cuốn tiểu thuyết gây xôn xao dư luận, không phải bởi giá trị nghệ thuật mà lại bởi những tranh cãi xoay quanh yếu tố dâm ô và bạo lực được cho là khai thác quá mức. Cuốn sách đã hứng chịu không ít lời chỉ trích từ báo chí, khiến Zola phải tốn nhiều công sức để “gỡ gạc” danh tiếng cho tác phẩm trong suốt giai đoạn 1868 – 1870.
Từ bến cảng, men theo đường Guenégaud, bạn sẽ bắt gặp ngõ Cầu Mới, một hành lang hẹp và tăm tối, vỏn vẹn ba mươi bước dài và hai bước rộng, nối liền đường Mazarine với dòng sông Seine. Con ngõ ẩm mốc, lát những tấm đan vàng nhợt sờn cũ, tỏa ra mùi khó chịu, bao quanh bởi khung viền đen kịt vì cáu bẩn. Vào những ngày hè oi ả, một luồng sáng trắng nhợt yếu ớt len lỏi qua lớp kính bẩn, lê lết thảm hại trên nền ngõ. Còn khi đông về, sương mù dày đặc bao phủ, những ô cửa kính chỉ hắt xuống nền đường nhầy nhụa thứ bóng tối ghê tởm.
Bên trái con ngõ là dãy cửa hiệu thấp lè tè, u ám, ẩn mình tránh những làn hơi lạnh từ hầm rượu. Những quầy sách cũ, đồ chơi trẻ con, hàng giấy bồi xám xịt vì bụi bặm nằm im lìm trong bóng tối. Những ô vuông nhỏ của tủ kính hắt lên ánh phản chiếu nhợt nhạt, kỳ lạ. Phía sau quầy hàng, bóng tối dày đặc che giấu những hình thù kỳ dị. Bên phải, một bức tường dài hun hút chạy dọc con ngõ. Các chủ hiệu tận dụng nó làm nơi bày bán những món đồ linh tinh, hàng hoá bỏ quên từ hai chục năm trước nằm chỏng chơ trên những tấm ván mỏng xỉn màu nâu tớm lợm. Một bà hàng nữ trang giả ngồi co ro bên chiếc tủ quầy, bày bán những chiếc nhẫn mười lăm xu trên miếng đệm nhung xanh, nằm gọn trong chiếc hộp gỗ đào. Bức tường phía trên mái kính sừng sững vươn lên, đen đúa, lổn nhổn những vết sẹo như mắc chứng phong sùi.
Ngõ Cầu Mới không phải nơi dành cho những bước chân dạo chơi thư thả. Người ta chỉ đi qua đây để tiết kiệm thời gian, những người bận rộn luôn vội vã, đầu cúi thấp, chân bước dồn, chẳng ai bận tâm ngắm nhìn những cửa hiệu hai bên. Chỉ có tiếng guốc khô khốc, hối hả gõ nhịp trên nền đá, không một lời nói, không một ánh mắt. Những người bán hàng bồn chồn ngóng đợi những vị khách hiếm hoi tình cờ dừng chân. Khi chiều buông, ba ngọn đèn hơi đốt trong lồng đèn vuông vức nặng nề toả ánh sáng leo lét, yếu ớt như sắp tắt ngấm, phủ lên con ngõ một vẻ âm u, bất trắc, giống như một đường hầm được soi sáng lờ mờ bởi những ngọn đèn tang. Các chủ hiệu bằng lòng với thứ ánh sáng ít ỏi hắt xuống từ những ngọn đèn này. Bên trong, một ngọn đèn chụp đặt sâu trong góc chỉ đủ soi tỏ những vật dụng trong bóng tối. Trong màn đêm nhợt nhạt, khung cửa kính của một hàng giấy bồi bỗng sáng rực lên bởi hai ngọn đèn đá, trong khi ở phía đối diện, một ngọn nến le lói tỏa ánh sáng mờ ảo bên trong hộp nữ trang giả. Bà hàng gà gật phía sau quầy, hai bàn tay khuất dưới tấm khăn choàng.
Đối diện bà hàng, một cửa hiệu với ván tường màu xanh ve phủ đầy ẩm mốc đã tồn tại ở đó nhiều năm. Bảng hiệu ghi dòng chữ “Tiệm tạp hoá” màu đen, và trên khung kính là cái tên “Thérèse Raquin” được viết bằng chữ đỏ. Bên trong cửa kính lún sâu, phủ giấy xanh lơ, hàng hóa bày bán lờ mờ trong ánh sáng yếu ớt. Một bên là những chiếc mũ bonnet xếp nếp, tay áo và cổ cồn mousseline, áo đan, vớ dài, vớ ngắn, tất cả đều ngả vàng, nhăn nhúm, treo thảm hại trên móc sắt. Những chiếc mũ mới, trắng hơn, nổi bật trên nền xanh của giấy phủ vách. Những chiếc vớ ngắn đủ màu sắc tạo thành những đốm tối nhạt nhoà giữa hàng vải mousseline. Trong một tủ kính nhỏ hơn, những cuộn len xanh, nút áo đen gắn trên bìa trắng, hộp đủ màu đủ cỡ, lưới bao tóc đính cườm thép, kim đan, mẫu trướng, cuộn ruban, tất cả nằm lẫn lộn, phủ bụi và ẩm mốc. Vào buổi trưa hè, khi ánh nắng chói chang tràn ngập đường phố, khuôn mặt xanh xao, trầm lặng của một người thiếu phụ hiện ra mơ hồ trong bóng tối của tiệm. Vầng trán thấp gầy, chiếc mũi dài hẹp thon, đôi môi mỏng manh như cánh hồng phai, chiếc cằm ngắn đầy đặn tựa trên cổ. Khuôn mặt trắng nhợt nhạt, đôi mắt đen lánh trũng sâu, khuất sau mái tóc dày màu tối. Nàng ngồi đó, bất động, bình thản, giữa hai chiếc mũ bonnet in vết rỉ sét của thanh treo.
Khi màn đêm buông xuống, ánh đèn soi tỏ bên trong cửa hiệu. Không gian rộng hơn là sâu, một quầy hàng nhỏ ở một đầu, đầu kia là cầu thang xoắn ốc dẫn lên tầng trên. Tủ kính, tủ thường, các tông dựa sát tường, bốn chiếc ghế quanh chiếc bàn tròn chiếm giữa căn phòng. Căn phòng trần trụi, lạnh lẽo, hàng hóa được đóng gói cẩn thận, chất đống trong góc. Thường thì có hai người phụ nữ ngồi sau quầy: người thiếu phụ trẻ với khuôn mặt trầm lắng và một người già mỉm cười thiu thiu ngủ. Bà lão chừng sáu mươi tuổi, khuôn mặt đầy đặn, an yên dưới ánh đèn. Một con mèo vằn to tướng ngồi xổm ở góc quầy, nhìn bà ngủ. Ở phía dưới, một người đàn ông khoảng ba mươi tuổi, nhỏ người, còm cõi, dáng điệu uể oải, tóc hoe nhạt, râu cằm lơ thơ, mặt lấm tấm những vết hoa, trông như một đứa trẻ bệnh tật, ngồi đọc sách hoặc thì thầm với người thiếu phụ. Trước mười giờ, bà lão thức giấc. Họ đóng cửa tiệm, cả gia đình lên gác. Con mèo vằn cọ đầu vào tay vịn cầu thang, theo chủ lên lầu.
Trên gác có ba phòng. Cầu thang dẫn đến phòng ăn kiêm phòng khách. Lò sưởi bằng sành nằm trong hốc tường, đối diện là tủ búp phê, những chiếc ghế dựa xếp dọc tường, và chiếc bàn tròn rộng lớn chiếm giữa phòng. Phía trong cùng, sau vách kính, là bếp nấu ăn đen đúa. Bên cạnh phòng ăn là hai phòng ngủ. Bà lão hôn tạm biệt con trai và con dâu rồi về phòng riêng. Con mèo nằm ngủ trên ghế ở bếp. Hai vợ chồng bước vào phòng ngủ. Căn phòng có thêm một cửa thông ra cầu thang dẫn xuống ngõ qua lối đi tối tăm, chật hẹp. Người chồng run rẩy vì sốt, nằm xuống giường. Người vợ trẻ mở cửa sổ, khép cánh cửa chớp lại. Nàng đứng lặng vài phút, nhìn bức tường lớn đen đúa, trát vữa thô ráp, trải dài dọc con hẻm. Rồi, với vẻ dửng dưng, nàng quay vào, nằm xuống giường. Mời các bạn đón đọc “Thiếu Phụ Đam Mê” của tác giả Émile Zola.